Tiếng Việt American

Dán ngà tức thì

Tổng quan

Đặt vấn đề

Việc “bít kín” ngà trì hoãn theo cách làm truyền thống ở phục hình gián tiếp. Với kĩ thuật này, ngà được bít kín ngay sau giai đoạn răng tạm ở lần hẹn gắn vĩnh viễn. Điều này được chứng minh trình tự này không cung cấp điều kiện tối ưu cho quy trình dán. Việc bít kín ngà tức thì (IDS) là phương pháp mới khi đó ngà được bít kín ngay sau khi răng được mài chỉnh, trước khi lấy dấu.

MỤC ĐÍCH:

Mục đích của nghiên cứu này là để xác định có sự khác biệt về độ bền dán vi thể ở ngà răng bằng phương pháp bít kín ngà tức thì (IDS) so với bít kín ngà trì hoãn (DDS).

VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP:

15 răng cối mới được nhổ, chia thành 3 nhóm, mỗi nhóm 5 răng. Keo dán ngà (DBA)trong quy trình 3 bước etch- rửa- keo dán được sử dụng cho tất cả các nhóm. Nhóm chứng (C) được sửa soạn sử dụng kĩ thuật dán trực tiếp ngay lập tức. Nhóm DDS được mài sửa soạn sử dụng phục hình gián tiếp với DDS. Sửa soạn mẫu IDS với phục hình gián tiếp với phương pháp IDS ngay sau khi mài. Tất cả các răng được mài cho thử nghiệm sức bền dán vi thể không bị phá huỷ. Mẫu chứng được bảo quản trong nước trong 24 giờ. Mười một chùm (0,9 x 0,9 x 11 mm) từ mỗi răng được chọn để test. Dữ liệu về độ bền dán (MPa) được phân tích bằng test Kruskal-Wallis, và so sánh sau khi đã được thực hiện test Mann-Whitney U (alpha = .05). Các mẫu cũng được đánh giá độ gãy bằng phân tích dưới kính hiển vi điện tử (SEM).

 KẾT QUẢ:

Độ bền dán vi thể trung bình của nhóm C và IDS không khác biệt về mặt thống kê với 55.06 và 58.25 MPa. Độ bền dán của nhóm DDS, 11,58 MPa, khác biệt về mặt thống kê (P = .0081) so với 2 nhóm còn lại. Đánh giá bằng kính hiển vi của phương pháp thất bại cho thấy hầu hết thất bại ở nhóm DDS là kết dính giữa 2 bề mặt vật liệu, trong khi các thất bại trong nhóm chứng (C) và IDS là kết dính bên trong lòng vật liệu và kết dính giữa 2 bề mặt vật liệu. Phân tích dưới kính hiển vi điện tử chỉ ra rằng đối với nhóm chứng và IDS, sự thất bại trộn lẫn thất baị của keo dán và thất bại kết dính bên trong lòng vật liệu. Đối với mẫu DDS, sự thất bại thường phần đầu của lớp. Phân tích kính hiển vi điện tử cho thấy khối nguyên vẹn với lớp lai tốt dày 3 đến 5µm ở nhóm C và IDS. Đối với mẫu DDS, lớp lai có sự gián đoạn đáng kể với lớp resin bên trên.

Kết luận:

Khi sửa soạn răng cho phục hồi gián tiếp, IDS với 3 bước etch- rửa- dán DBA trước khi lấy dấu, kết quả sẽ làm tăng cường độ liên kết về mặt vi thể so với DDS. Kỹ thuật này cũng giúp loại bỏ bất kỳ mối lo ngại nào về độ dày lớp “bít kín” ngà.